Ung thư biểu mô vảy đầu cổ là gì? Các công bố khoa học về Ung thư biểu mô vảy đầu cổ

Ung thư biểu mô vảy (squamous cell carcinoma) đầu cổ là một loại ung thư phát triển từ lớp mô biểu mô vảy phủ bề mặt da. Loại ung thư này thường xuất hiện trên ...

Ung thư biểu mô vảy (squamous cell carcinoma) đầu cổ là một loại ung thư phát triển từ lớp mô biểu mô vảy phủ bề mặt da. Loại ung thư này thường xuất hiện trên các khu vực da có khả năng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời như khu vực đầu và cổ. Ung thư biểu mô vảy đầu cổ có thể gây ra các triệu chứng như mụn nhọt, vảy, tổn thương da, sưng, đau hoặc chảy máu. Điều trị các trường hợp ung thư biểu mô vảy đầu cổ thường bao gồm phẫu thuật cắt bỏ khối u, xạ trị hoặc hóa trị. Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể cải thiện dự báo và đời sống của bệnh nhân.
Ung thư biểu mô vảy (squamous cell carcinoma) đầu cổ là một loại ung thư phát triển từ các tế bào biểu mô vảy nằm trên lớp ngoài cùng của da. Các tế bào ung thư này thường xuất hiện trên các vùng da dễ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, chẳng hạn như khu vực đầu và cổ.

Nguyên nhân chính của ung thư biểu mô vảy đầu cổ là tiếp xúc lâu dài với tia tử ngoại từ ánh sáng mặt trời hoặc các tác nhân gây ung thư khác. Các yếu tố tăng nguy cơ gồm:

1. Tiếp xúc với nhiều ánh sáng mặt trời: Các người có lịch sử tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời có nguy cơ cao hơn, chẳng hạn như những người làm việc ngoài trời trong thời gian dài hoặc thường xuyên tắm nắng.

2. Lão hóa da: Tế bào của da lão hóa dễ bị tổn thương hơn, và do đó, có khả năng phát triển thành ung thư cao hơn.

3. Một số yếu tố di truyền: Có một số gen có thể tăng nguy cơ mắc ung thư biểu mô vảy.

Triệu chứng của ung thư biểu mô vảy đầu cổ có thể bao gồm:

- Mụn nhọt, vảy hoặc tổn thương da không lành.
- Sưng và đau tại vị trí tổn thương.
- Chảy máu.
- Đau hoặc khó nuốt (nếu khối u lan rộng vào hầu họng).
- Các triệu chứng khác như khó thở, giảm cân đột ngột, hoặc mệt mỏi (khi ung thư đã phát triển và lan rộng).

Điều trị ung thư biểu mô vảy đầu cổ thường bao gồm:

1. Phẫu thuật: Cắt bỏ khối u ung thư là phương pháp điều trị chính cho các trường hợp với khối u lớn và không lan rộng. Phẫu thuật có thể bao gồm cả việc cắt bỏ các mô xung quanh khối u để đảm bảo không tái phát.

2. Xạ trị: Sử dụng tia X hoặc các loại tia ion để tiêu diệt các tế bào ung thư. Xạ trị thường được sử dụng cho những trường hợp có khối u quá lớn hoặc lan rộng axit khớp hoặc vùng xung quanh không thể cắt bỏ hoàn toàn.

3. Hóa trị: Sử dụng các loại thuốc chống ung thư để tiêu diệt các tế bào ung thư. Hóa trị có thể được sử dụng trước hoặc sau phẫu thuật và xạ trị, hoặc có thể được sử dụng như phương pháp chính nếu không thể thực hiện phẫu thuật hoặc xạ trị.

Điều quan trọng là phát hiện sớm và điều trị kịp thời ung thư biểu mô vảy đầu cổ để cải thiện dự báo và đời sống của bệnh nhân. Việc hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, sử dụng kem chống nắng và thực hiện kiểm tra da định kỳ là cách phòng ngừa quan trọng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư biểu mô vảy đầu cổ":

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY VÙNG ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN MUỘN BẰNG PHÁC ĐỒ BỘ ĐÔI PLATINUM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị của phác đồ hoá chất bộ đôi platinum trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn muộn tại Bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 62 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tái phát/di căn, được điều trị bằng hóa chất bước một bộ đôi platinum tại Bệnh viện K từ 12/2018 đến 12/2022. Kết quả: Đa phần gặp nam giới (77,4%), tuổi < 65 (chiếm 69,4%), toàn trạng ECOG 1 chiếm đa số (59,7%). Giai đoạn IV tại thời điểm chẩn đoán là 75,8%. Di căn phổi hay gặp nhất (59,7%). Đa phần bệnh nhân điều trị cisplatin (60,9%). Về đáp ứng điều trị, tỷ lệ đáp ứng một phần là 27,4%; tỷ lệ kiểm soát bệnh là 59,7%. Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ đáp ứng điều trị, phác đồ cisplatin có tỷ lệ đáp ứng toàn bộ cao hơn so với phác đồ carboplatin. Kết luận: Điều trị phác đồ bộ đôi platinum trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn muộn giúp cải thiện triệu chứng lâm sàng và tỷ lệ đáp ứng đạt 27,4%.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #giai đoạn tái phát/di căn #bộ đôi platinum
PHÂN TÍCH SỐNG THÊM VÀ ĐỘC TÍNH PHÁC ĐỒ HÓA CHẤT CẢM ỨNG THEO SAU HÓA XẠ ĐỒNG THỜI TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN III/IV (M0)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Phân tích kết quả sống thêm bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa được điều trị hóa chất cảm ứng phác đồ TCF, sau đó hóa xạ đồng thời tại bệnh viện K và đánh giá một số độc tính của phác đồ hóa xạ đồng thời. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF sau đó hoá xạ đồng thời phác đồ platinum tuần tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung vị là 13,5 tháng. Tỷ lệ sống thêm bệnh không tiến triển tại thời điểm 1 năm là 62%, tại thời điểm 2 năm là 29%. Độc tính chủ yếu là hạ bạch cầu hạt, thường gặp độ 1-2; hạ bạch cầu hạt độ 3-4 gặp 4 trường hợp. Thiếu máu độ 3-4 gặp 4,2%. Hạ tiểu cầu độ 3 gặp 2,1% trường hợp. Độc tính ngoài hệ tạo huyết chủ yếu liên quan đến xạ trị, đa phần độ 1-2. Viêm miệng độ 3 gặp 6,4%; độ 4 gặp 2,1%. Khô miệng độ 3 gặp 4,2% và độ 4 gặp 2,1%. Kết luận: Hóa chất cảm ứng TCF theo sau hóa xạ đồng thời cải thiện thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trong điều trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa. Độc tính phác đồ hóa xạ kiểm soát được.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #tại chỗ-tại vùng #hóa chất cảm ứng TCF
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ HẠ HỌNG CÓ KHỐI UNG THƯ NGUYÊN PHÁT THỨ HAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư hạ họng có khối ung thư nguyên phát thứ hai. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Đối tượng: 41 bệnh nhân ung thư hạ họng có khối ung thư nguyên phát thứ hai tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương. Kết quả: Tỷ lệ xuất hiện khối ung thư nguyên phát thứ hai là 4,7%. 41 bệnh nhân ung thư hạ họng có khối ung thư nguyên phát thứ hai toàn bộ là nam giới, tuổi trung bình 57,34 ± 6,95, hầu hết có tiền sử sử dụng thuốc lá và rượu nhiều năm. Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là rối loạn nuốt (97,6%): nuốt vướng 80,5%, nuốt đau 53,7%, nuốt nghẹn 14,6%, khàn tiếng 34,1%, bệnh nhân gầy sút cân rõ 24,4%. Hay gặp nhất khối u hạ họng ở giai đoạn T2 chiếm 46,3% và giai đoạn T3 chiếm 36,6%, 12,2% ở giai đoạn T1. Trên lâm sàng, có 90,2% bệnh nhân không nghi ngờ hạch di căn, có 7,3% bệnh nhân ở giai đoạn N1 và chỉ có 1 bệnh nhân ở giai đoạn N2. 97,6% bệnh nhân có khối ung thư nguyên phát thứ hai ở thực quản, chỉ có 1 bệnh nhân khối ung thư nguyên phát thứ hai ở họng miệng. 1/3 giữa thực quản là vị trí hay gặp tổn thương ung thư nhất ở 56,8%. 100% bệnh nhân ung thư biểu mô vảy, đa phần độ mô học III. Kết luận: Bệnh nhân ung thư hạ họng nói riêng và ung thư biểu mô vùng đầu cổ có nguy cơ có khối ung thư nguyên phát thứ hai, làm tăng tiên lượng xấu, ảnh hưởng tới phương án điều trị và khả năng sống sót của bệnh nhân. Khối ung thư nguyên phát thứ hai thường nằm ở đường hô hấp tiêu hóa trên và phổi. Triệu chứng lâm sàng đa dạng thường bị che lấp bởi triệu chứng tại khối ung thư nguyên phát. Trong chiến lược quản lý bệnh nhân ung thư cần tìm khối ung thư nguyên phát thứ hai ở tất cả bệnh nhân ung thư hạ họng trước điều trị khối u nguyên phát.
#ung thư hạ họng #ung thư nguyên phát thứ hai #ung thư biểu mô vảy đầu và cổ
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRIỆT ĐỂ UNG THƯ ĐẦU CỔ CÓ PHỐI HỢP XẠ TRỊ TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU ĐÀ NẴNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng, độc tính và biến chứng các phác đồ điều trị triệt để có phối hợp xạ trị trên nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy đầu cổ (HNSCC) người cao tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 37 trường hợp bệnh nhân ung thư đầu cổ ≥ 60 tuổi được điều trị triệt để với xạ trị đơn thuần hoặc phối hợp hoá xạ đồng thời từ 1/6/2019 đến 31/12/2020 với phương pháp nghiên cứu mô tả loạt ca. Kết quả: Đa số thuộc nhóm 60-70 tuổi (70,3%). Nam giới gấp 3 lần nữ. Tất cả bệnh nhân có chỉ số thể trạng tốt. Giải phẫu bệnh (GPB) là carcinoma tế bào gai grade 1 (46%) và carcinoma tế bào gai grade 2 (43,2%). Giai đoạn III, IV chiếm chủ yếu (65,1%). Độc tính viêm da, viêm niêm mạc chiếm 91,9%; độc tính đau, khó nuốt trên 90%; độc tính huyết học 8,1- 43,2%, không có độc tính độ 3, độ 4. Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn tại thời điểm 3 tháng là 89%. Tỷ lệ tái phát di căn tại thời điểm 6 tháng là 10,8% (4 ca). Biến chứng giảm bạch cầu, khó nuốt, đau làm giảm tỷ lệ đáp ứng điều trị. Kết luận: Bệnh nhân cao tuổi ung thư đầu cổ có thể trạng tốt, dung nạp điều trị hiệu quả với các phác đồ thích hợp với tỷ lệ đáp ứng cao cùng với tác dụng phụ trong giới hạn chấp nhận.
#ung thư biểu mô tế bào vảy đầu cổ #bệnh nhân người cao tuổi #điều trị triệt để
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU HOÁ CHẤT TRƯỚC PHÁC ĐỒ TCF TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY VÙNG ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN TẠI CHỖ, TẠI VÙNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị và phân tích một số yếu tố liên quan tỷ lệ đáp ứng của phác đồ TCF hoá chất trước trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa tại Bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Trong 47 bệnh nhân nghiên cứu, nam giới chiếm đa số (74,5%), nhóm tuổi < 65 tuổi chiếm 68,1%, toàn trạng ECOG 0 chiếm 38,3%. Giai đoạn IV (M0) thời điểm chẩn đoán là 78,7%. Ung thư hạ họng-thanh quản chiếm đa số (44,7%), tiếp đến là họng miệng (34,0%). Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ của phác đồ đạt 70,2%. Kết luận: Hoá chất cảm ứng phác đồ TCF trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng có tỷ lệ đáp ứng toàn bộ cao.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #giai đoạn tại chỗ #tại vùng #hoá chất cảm ứng #TCF
Xác định chữ ký dự đoán điều trị cá nhân hóa cho ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 24 - Trang 1-16 - 2023
Ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ (HNSCC) là loại ung thư phổ biến nhất ở vùng đầu và cổ. Các gen liên quan đến đáp ứng điều trị (TRRGs) có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình hình thành khối u và tiên lượng trong HNSCC. Tuy nhiên, giá trị lâm sàng và ý nghĩa tiên đoán của TRRGs vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi đã đặt mục tiêu xây dựng một mô hình nguy cơ tiên đoán nhằm dự đoán phản ứng điều trị và tiên lượng trong các nhóm con HNSCC được xác định bởi TRRGs. Dữ liệu đa omics và thông tin lâm sàng của bệnh nhân HNSCC đã được tải xuống từ The Cancer Genome Atlas (TCGA). Dữ liệu hồ sơ GSE65858 và chip GSE67614 được tải xuống từ cơ sở dữ liệu di truyền chức năng công khai Gene Expression Omnibus (GEO). Dựa trên cơ sở dữ liệu TCGA-HNSC, bệnh nhân được chia thành hai nhóm: nhóm hồi phục và nhóm không hồi phục dựa trên phản ứng điều trị, và các TRRGs biểu hiện khác nhau giữa hai nhóm này đã được sàng lọc. Sử dụng phân tích hồi quy Cox và phân tích phương pháp khôi phục và lựa chọn tuyệt đối tối thiểu (LASSO), các TRRGs ứng viên có thể dự đoán tiên lượng của HNSCC đã được xác định và được sử dụng để xây dựng chữ ký dựa trên TRRGs và một đồ thị tiên lượng. Tổng cộng có 1896 TRRGs biểu hiện khác nhau được sàng lọc, bao gồm 1530 gen tăng biểu hiện và 366 gen giảm biểu hiện. Sau đó, 206 TRRGs biểu hiện khác nhau có liên quan đáng kể đến sự sống sót đã được chọn thông qua phân tích hồi quy Cox đơn biến. Cuối cùng, tổng cộng 20 gen TRRGs ứng viên đã được xác định qua phân tích LASSO để thiết lập một chữ ký cho dự đoán nguy cơ, và điểm nguy cơ của từng bệnh nhân đã được tính toán. Bệnh nhân được chia thành nhóm nguy cơ cao (Risk-H) và nhóm nguy cơ thấp (Risk-L) dựa trên điểm nguy cơ. Kết quả cho thấy bệnh nhân Risk-L có tỷ lệ sống sót tổng thể (OS) tốt hơn so với bệnh nhân Risk-H. Phân tích đường cong đặc trưng nhận diện (ROC) đã chỉ ra khả năng dự đoán tuyệt vời cho tỷ lệ OS ở năm thứ 1, 3, và 5 trong cơ sở dữ liệu TCGA-HNSC và GEO. Hơn nữa, đối với các bệnh nhân được điều trị bằng xạ trị sau phẫu thuật, bệnh nhân Risk-L có OS kéo dài hơn và tỉ lệ tái phát thấp hơn so với bệnh nhân Risk-H. Đồ thị liên quan đến điểm nguy cơ và các yếu tố lâm sàng khác có khả năng dự đoán xác suất sống sót tốt. Chữ ký dự đoán nguy cơ được đề xuất và Đồ thị dựa trên TRRGs là những công cụ tiên tiến đầy hứa hẹn cho việc dự đoán phản ứng điều trị và tỷ lệ sống sót tổng thể ở bệnh nhân HNSCC.
#ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ #gen liên quan đến đáp ứng điều trị #mô hình nguy cơ #tử vong tổng thể #phân tích hồi quy Cox #phân tích LASSO
Sự kết hợp giữa số lượng tiểu cầu và thể tích tiểu cầu trung bình (COP-MPV) dự đoán tiên lượng sau phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản có thể phẫu thuật ở giai đoạn đầu và giai đoạn muộn Dịch bởi AI
Tumor Biology - Tập 37 - Trang 9323-9331 - 2016
Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm kiếm yếu tố tiên lượng mạnh mẽ nhất từ các xét nghiệm máu thường quy cho bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản (ESCC). Nhiều xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đã được đánh giá, bao gồm các chỉ số phản ánh các tham số tế bào hồng cầu (hemoglobin (Hb), thể tích hồng cầu trung bình (MCV), nồng độ hemoglobin tế bào trung bình (MCHC) và chiều rộng phân bố tế bào hồng cầu (RDW)), các chỉ số hình thái tiểu cầu (thể tích tiểu cầu trung bình (MPV) và số lượng tiểu cầu (PLT)), tình trạng đông máu (D-dimer) và chỉ số khối u (CA19-9). Các chỉ số viêm đã biết (NLR và PLR) cũng được tính toán. Tổng cộng có 468 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ESCC từ tháng 12 năm 2005 đến tháng 12 năm 2008 đã được phân tích hồi cứu trong nghiên cứu này. Thông qua việc sử dụng các phân tích nguy cơ tỷ lệ Cox đơn biến và đa biến, chúng tôi phát hiện rằng PLT và MPV có mối liên hệ đáng kể với sự sống sót tổng thể (OS) và sự sống không bệnh (DFS) của bệnh nhân ESCC, với giá trị cắt tối ưu lần lượt là 212 và 10.6. Hơn nữa, sự kết hợp giữa PLT và MPV trước phẫu thuật (COP-MPV) được tính toán như sau: những bệnh nhân có cả PLT (≥212 × 109 L−1) và MPV (≥10.6 fL) tăng cao được gán điểm 2, trong khi đó những bệnh nhân có một hoặc không có cả hai được gán điểm 1 hoặc 0. COP-MPV là yếu tố tiên đoán độc lập cho OS (tỷ lệ nguy cơ (HR) 0.378, khoảng tin cậy 95% (CI) 0.241 đến 0.593, P < 0.001, 0/2) và DFS (HR 0.341, 95% CI 0.218 đến 0.534, P < 0.001, 0/2) trong các phân tích đa biến. Trong các phân tích nhóm cho các bệnh nhân giai đoạn đầu (giai đoạn I và II) và giai đoạn tiến xa tại chỗ (giai đoạn III), COP-MPV được chứng minh có mối liên hệ đáng kể với OS và DFS trong mỗi nhóm (P = 0.025 và P = 0.018 cho OS và P = 0.029 và P = 0.002 cho DFS). Kết luận, chúng tôi nhận thấy rằng COP-MPV là một yếu tố dự đoán triển vọng cho sự sống sót sau phẫu thuật ở bệnh nhân ESCC.
#ESCC #tiểu cầu #thể tích tiểu cầu trung bình #tiên lượng #sống sót tổng thể #sự sống không bệnh
So sánh cách rạch môi dưới McGregor với cách rạch bậc cho việc cắt bỏ u ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy miệng: Liệu điều này có ảnh hưởng đến kết quả chức năng và thẩm mỹ? Một nghiên cứu so sánh Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - Trang 1-6 - 2023
Cách tiếp cận trong miệng đối với u nằm ở phần sau của khoang miệng và chứng trismus gặp khó khăn trong việc đánh giá khối u và đạt được biên âm tính. Để có được tiếp cận đầy đủ và đạt được biên âm tính ở các khối u nằm phía sau, rạch môi dưới (LLS) đã được thực hành rộng rãi trong phẫu thuật đầu mặt cổ. Bài viết này nhằm so sánh rạch LLS McGregor và thiết kế rạch bậc để tiếp cận chức năng và thẩm mỹ sau phẫu thuật cắt bỏ. Nghiên cứu này được tiến hành trên 22 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư biểu mô tế bào vảy miệng cần rạch môi dưới để cắt bỏ khối u. Việc phân bổ ngẫu nhiên bệnh nhân được thực hiện bằng phương pháp bốc thăm trong hai nhóm đều nhau. Nhóm A được chọn để thực hiện rạch LLS McGregor, trong khi nhóm B thực hiện rạch LLS bậc. Các bệnh nhân được đánh giá về kết quả chức năng và thẩm mỹ cùng với các thông số thứ cấp như thời gian tiếp xúc và biến chứng sau phẫu thuật. Ở nhóm A, vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật (POD 7), điểm trung bình là 2.36 ± 0.50 và vào ngày thứ 30 (POD 30) là 1.90 ± 0.53 trong khi đánh giá thẩm mỹ ở nhóm này, điểm trung bình tại POD 7 và 30 là 2.81 ± 0.98 và 3.27 ± 0.64, tương ứng. Ở nhóm B, tức là rạch LLS bậc (n = 11), kết quả chức năng, tại POD 7, điểm trung bình là 1.36 ± 0.67, và tại POD 30 là 1.09 ± 0.30 trong khi đánh giá thẩm mỹ ở cùng nhóm, điểm trung bình tại POD 7 và 30 là 3.90 ± 0.70 và 4.45 ± 0.68, tương ứng. Nghiên cứu hiện tại cho thấy sự cải thiện về chức năng và thẩm mỹ của bệnh nhân sau khi thực hiện rạch LLS bậc bằng cách cung cấp tiếp cận phẫu thuật đầy đủ.
#ung thư miệng #ung thư biểu mô tế bào vảy #rạch môi dưới #phẫu thuật đầu mặt cổ #chức năng #thẩm mỹ
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRONG UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY VÙNG ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN TẠI CHỖ, TẠI VÙNG BẰNG HOÁ CHẤT CẢM ỨNG THEO SAU HOÁ XẠ ĐỒNG THỜI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị của điều trị hoá chất trước phác đồ TCF sau đó hoá xạ đồng thời trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa tại Bệnh viện K và mô tả một số độc tính của phác đồ hoá chất TCF. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF sau đó hoá xạ đồng thời phác đồ platinum tuần tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ đạt 76,6%, tỷ lệ kiểm soát bệnh là 87,2%. ECOG là yếu tố liên quan đến tỷ lệ đáp ứng của phác đồ điều trị. Độc tính của phác đồ hoá chất cảm ứng: độc tính hệ tạo huyết hay gặp là hạ bạch cầu, chủ yếu độ 1-2. Độc tính ngoài hệ tạo huyết độ 3-4 như tiêu chảy (4,2%); nôn (10,6%); buồn nôn (12,7%). Kết luận: Hoá chất cảm ứng phác đồ TCF theo sau hoá xạ đồng thời trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng có tỷ lệ đáp ứng toàn bộ cao và độc tính chấp nhận được.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #giai đoạn tại chỗ #tại vùng #hoá chất cảm ứng #TCF
Ý nghĩa của sự biểu hiện kết hợp và tiên lượng của PPFIA1 và ALG3 trong ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 46 - Trang 2693-2701 - 2019
Các thành viên trong họ PPFIA và ALG3 đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và tiến triển của khối u. Tuy nhiên, vai trò chính xác của từng thành viên trong họ PPFIA và ALG3 trong ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ (HNSCC) vẫn chưa được làm rõ. Chúng tôi đã nghiên cứu sự biểu hiện mRNA của các thành viên trong họ PPFIA và ALG3 ở nhiều loại khối u so với các đối chứng bình thường dựa trên cơ sở dữ liệu Oncomine, cùng với phân tích tổng hợp về sự biểu hiện của chúng trong dòng tế bào ung thư HNSCC. Sự biểu hiện mRNA của các thành viên trong họ PPFIA và ALG3 trong dòng tế bào ung thư biểu mô tế bào vảy thanh quản và dòng tế bào thanh quản bình thường đã được phát hiện thông qua phương pháp phản ứng chuỗi polymerase thời gian thực định lượng. Dựa trên cơ sở dữ liệu cBioportal, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu thêm các thay đổi trong sự biểu hiện mRNA và mối quan hệ đồng tồn tại của các thành viên họ PPFIA và ALG3 trong HNSCC. Mối quan hệ giữa sự thay đổi trong sự biểu hiện mRNA của PPFIA1 và ALG3 với tiên lượng ở các bệnh nhân HNSCC đã được khảo sát. Chúng tôi phát hiện rằng PPFIA1 và ALG3 được biểu hiện quá mức một cách đặc biệt ở cấp độ mRNA trong mô HNSCC so với mô bình thường, chúng có mối quan hệ đồng tồn tại đáng kể, sự biểu hiện mRNA của chúng cao hơn nhiều so với các thành viên khác trong họ PPFIA trong dòng tế bào ung thư biểu mô tế bào vảy thanh quản, và sự biểu hiện mRNA của chúng cũng cao hơn một cách có ý nghĩa trong dòng tế bào ung thư thanh quản so với dòng tế bào thanh quản bình thường. Những bệnh nhân không có thay đổi nào về biểu hiện mRNA của cả PPFIA1 và ALG3 có khả năng sống sót toàn bộ và không bị tiến triển bệnh tốt hơn so với những bệnh nhân có cả hai loại thay đổi này. Dựa trên những phát hiện này, PPFIA1 và ALG3 có thể đóng vai trò trong việc biểu hiện gen gây ung thư trong HNSCC. Việc biểu hiện quá mức kết hợp của chúng có liên quan đáng kể đến kết quả sống sót kém. Mối quan hệ giữa chúng và cơ chế hoạt động trong các loại ung thư vùng đầu và cổ cần được nghiên cứu thêm.
#PPFIA1 #ALG3 #ung thư biểu mô tế bào vảy #đầu và cổ #tiên lượng
Tổng số: 10   
  • 1