Ung thư biểu mô vảy đầu cổ là gì? Các công bố khoa học về Ung thư biểu mô vảy đầu cổ

Ung thư biểu mô vảy (squamous cell carcinoma) đầu cổ là một loại ung thư phát triển từ lớp mô biểu mô vảy phủ bề mặt da. Loại ung thư này thường xuất hiện trên ...

Ung thư biểu mô vảy (squamous cell carcinoma) đầu cổ là một loại ung thư phát triển từ lớp mô biểu mô vảy phủ bề mặt da. Loại ung thư này thường xuất hiện trên các khu vực da có khả năng tiếp xúc với ánh sáng mặt trời như khu vực đầu và cổ. Ung thư biểu mô vảy đầu cổ có thể gây ra các triệu chứng như mụn nhọt, vảy, tổn thương da, sưng, đau hoặc chảy máu. Điều trị các trường hợp ung thư biểu mô vảy đầu cổ thường bao gồm phẫu thuật cắt bỏ khối u, xạ trị hoặc hóa trị. Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể cải thiện dự báo và đời sống của bệnh nhân.
Ung thư biểu mô vảy (squamous cell carcinoma) đầu cổ là một loại ung thư phát triển từ các tế bào biểu mô vảy nằm trên lớp ngoài cùng của da. Các tế bào ung thư này thường xuất hiện trên các vùng da dễ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, chẳng hạn như khu vực đầu và cổ.

Nguyên nhân chính của ung thư biểu mô vảy đầu cổ là tiếp xúc lâu dài với tia tử ngoại từ ánh sáng mặt trời hoặc các tác nhân gây ung thư khác. Các yếu tố tăng nguy cơ gồm:

1. Tiếp xúc với nhiều ánh sáng mặt trời: Các người có lịch sử tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời có nguy cơ cao hơn, chẳng hạn như những người làm việc ngoài trời trong thời gian dài hoặc thường xuyên tắm nắng.

2. Lão hóa da: Tế bào của da lão hóa dễ bị tổn thương hơn, và do đó, có khả năng phát triển thành ung thư cao hơn.

3. Một số yếu tố di truyền: Có một số gen có thể tăng nguy cơ mắc ung thư biểu mô vảy.

Triệu chứng của ung thư biểu mô vảy đầu cổ có thể bao gồm:

- Mụn nhọt, vảy hoặc tổn thương da không lành.
- Sưng và đau tại vị trí tổn thương.
- Chảy máu.
- Đau hoặc khó nuốt (nếu khối u lan rộng vào hầu họng).
- Các triệu chứng khác như khó thở, giảm cân đột ngột, hoặc mệt mỏi (khi ung thư đã phát triển và lan rộng).

Điều trị ung thư biểu mô vảy đầu cổ thường bao gồm:

1. Phẫu thuật: Cắt bỏ khối u ung thư là phương pháp điều trị chính cho các trường hợp với khối u lớn và không lan rộng. Phẫu thuật có thể bao gồm cả việc cắt bỏ các mô xung quanh khối u để đảm bảo không tái phát.

2. Xạ trị: Sử dụng tia X hoặc các loại tia ion để tiêu diệt các tế bào ung thư. Xạ trị thường được sử dụng cho những trường hợp có khối u quá lớn hoặc lan rộng axit khớp hoặc vùng xung quanh không thể cắt bỏ hoàn toàn.

3. Hóa trị: Sử dụng các loại thuốc chống ung thư để tiêu diệt các tế bào ung thư. Hóa trị có thể được sử dụng trước hoặc sau phẫu thuật và xạ trị, hoặc có thể được sử dụng như phương pháp chính nếu không thể thực hiện phẫu thuật hoặc xạ trị.

Điều quan trọng là phát hiện sớm và điều trị kịp thời ung thư biểu mô vảy đầu cổ để cải thiện dự báo và đời sống của bệnh nhân. Việc hạn chế tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, sử dụng kem chống nắng và thực hiện kiểm tra da định kỳ là cách phòng ngừa quan trọng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư biểu mô vảy đầu cổ":

PHÂN TÍCH SỐNG THÊM VÀ ĐỘC TÍNH PHÁC ĐỒ HÓA CHẤT CẢM ỨNG THEO SAU HÓA XẠ ĐỒNG THỜI TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN III/IV (M0)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Phân tích kết quả sống thêm bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa được điều trị hóa chất cảm ứng phác đồ TCF, sau đó hóa xạ đồng thời tại bệnh viện K và đánh giá một số độc tính của phác đồ hóa xạ đồng thời. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF sau đó hoá xạ đồng thời phác đồ platinum tuần tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung vị là 13,5 tháng. Tỷ lệ sống thêm bệnh không tiến triển tại thời điểm 1 năm là 62%, tại thời điểm 2 năm là 29%. Độc tính chủ yếu là hạ bạch cầu hạt, thường gặp độ 1-2; hạ bạch cầu hạt độ 3-4 gặp 4 trường hợp. Thiếu máu độ 3-4 gặp 4,2%. Hạ tiểu cầu độ 3 gặp 2,1% trường hợp. Độc tính ngoài hệ tạo huyết chủ yếu liên quan đến xạ trị, đa phần độ 1-2. Viêm miệng độ 3 gặp 6,4%; độ 4 gặp 2,1%. Khô miệng độ 3 gặp 4,2% và độ 4 gặp 2,1%. Kết luận: Hóa chất cảm ứng TCF theo sau hóa xạ đồng thời cải thiện thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trong điều trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa. Độc tính phác đồ hóa xạ kiểm soát được.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #tại chỗ-tại vùng #hóa chất cảm ứng TCF
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY VÙNG ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN MUỘN BẰNG PHÁC ĐỒ BỘ ĐÔI PLATINUM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng điều trị của phác đồ hoá chất bộ đôi platinum trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn muộn tại Bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 62 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tái phát/di căn, được điều trị bằng hóa chất bước một bộ đôi platinum tại Bệnh viện K từ 12/2018 đến 12/2022. Kết quả: Đa phần gặp nam giới (77,4%), tuổi < 65 (chiếm 69,4%), toàn trạng ECOG 1 chiếm đa số (59,7%). Giai đoạn IV tại thời điểm chẩn đoán là 75,8%. Di căn phổi hay gặp nhất (59,7%). Đa phần bệnh nhân điều trị cisplatin (60,9%). Về đáp ứng điều trị, tỷ lệ đáp ứng một phần là 27,4%; tỷ lệ kiểm soát bệnh là 59,7%. Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ đáp ứng điều trị, phác đồ cisplatin có tỷ lệ đáp ứng toàn bộ cao hơn so với phác đồ carboplatin. Kết luận: Điều trị phác đồ bộ đôi platinum trên bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn muộn giúp cải thiện triệu chứng lâm sàng và tỷ lệ đáp ứng đạt 27,4%.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #giai đoạn tái phát/di căn #bộ đôi platinum
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRIỆT ĐỂ UNG THƯ ĐẦU CỔ CÓ PHỐI HỢP XẠ TRỊ TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU ĐÀ NẴNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng, độc tính và biến chứng các phác đồ điều trị triệt để có phối hợp xạ trị trên nhóm bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy đầu cổ (HNSCC) người cao tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 37 trường hợp bệnh nhân ung thư đầu cổ ≥ 60 tuổi được điều trị triệt để với xạ trị đơn thuần hoặc phối hợp hoá xạ đồng thời từ 1/6/2019 đến 31/12/2020 với phương pháp nghiên cứu mô tả loạt ca. Kết quả: Đa số thuộc nhóm 60-70 tuổi (70,3%). Nam giới gấp 3 lần nữ. Tất cả bệnh nhân có chỉ số thể trạng tốt. Giải phẫu bệnh (GPB) là carcinoma tế bào gai grade 1 (46%) và carcinoma tế bào gai grade 2 (43,2%). Giai đoạn III, IV chiếm chủ yếu (65,1%). Độc tính viêm da, viêm niêm mạc chiếm 91,9%; độc tính đau, khó nuốt trên 90%; độc tính huyết học 8,1- 43,2%, không có độc tính độ 3, độ 4. Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn tại thời điểm 3 tháng là 89%. Tỷ lệ tái phát di căn tại thời điểm 6 tháng là 10,8% (4 ca). Biến chứng giảm bạch cầu, khó nuốt, đau làm giảm tỷ lệ đáp ứng điều trị. Kết luận: Bệnh nhân cao tuổi ung thư đầu cổ có thể trạng tốt, dung nạp điều trị hiệu quả với các phác đồ thích hợp với tỷ lệ đáp ứng cao cùng với tác dụng phụ trong giới hạn chấp nhận.
#ung thư biểu mô tế bào vảy đầu cổ #bệnh nhân người cao tuổi #điều trị triệt để
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ HẠ HỌNG CÓ KHỐI UNG THƯ NGUYÊN PHÁT THỨ HAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư hạ họng có khối ung thư nguyên phát thứ hai. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Đối tượng: 41 bệnh nhân ung thư hạ họng có khối ung thư nguyên phát thứ hai tại Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương. Kết quả: Tỷ lệ xuất hiện khối ung thư nguyên phát thứ hai là 4,7%. 41 bệnh nhân ung thư hạ họng có khối ung thư nguyên phát thứ hai toàn bộ là nam giới, tuổi trung bình 57,34 ± 6,95, hầu hết có tiền sử sử dụng thuốc lá và rượu nhiều năm. Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là rối loạn nuốt (97,6%): nuốt vướng 80,5%, nuốt đau 53,7%, nuốt nghẹn 14,6%, khàn tiếng 34,1%, bệnh nhân gầy sút cân rõ 24,4%. Hay gặp nhất khối u hạ họng ở giai đoạn T2 chiếm 46,3% và giai đoạn T3 chiếm 36,6%, 12,2% ở giai đoạn T1. Trên lâm sàng, có 90,2% bệnh nhân không nghi ngờ hạch di căn, có 7,3% bệnh nhân ở giai đoạn N1 và chỉ có 1 bệnh nhân ở giai đoạn N2. 97,6% bệnh nhân có khối ung thư nguyên phát thứ hai ở thực quản, chỉ có 1 bệnh nhân khối ung thư nguyên phát thứ hai ở họng miệng. 1/3 giữa thực quản là vị trí hay gặp tổn thương ung thư nhất ở 56,8%. 100% bệnh nhân ung thư biểu mô vảy, đa phần độ mô học III. Kết luận: Bệnh nhân ung thư hạ họng nói riêng và ung thư biểu mô vùng đầu cổ có nguy cơ có khối ung thư nguyên phát thứ hai, làm tăng tiên lượng xấu, ảnh hưởng tới phương án điều trị và khả năng sống sót của bệnh nhân. Khối ung thư nguyên phát thứ hai thường nằm ở đường hô hấp tiêu hóa trên và phổi. Triệu chứng lâm sàng đa dạng thường bị che lấp bởi triệu chứng tại khối ung thư nguyên phát. Trong chiến lược quản lý bệnh nhân ung thư cần tìm khối ung thư nguyên phát thứ hai ở tất cả bệnh nhân ung thư hạ họng trước điều trị khối u nguyên phát.
#ung thư hạ họng #ung thư nguyên phát thứ hai #ung thư biểu mô vảy đầu và cổ
Biểu hiện của các gen mã hóa protein vận động tế bào trong quá trình tiến triển của ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ Dịch bởi AI
Bulletin of Experimental Biology and Medicine - - 2018
Mô hình ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ (HNSCC) được sử dụng để nghiên cứu sự biểu hiện của các gen mã hóa protein liên kết actin phụ thuộc vào loại vận động tế bào. Sự biểu hiện của mRNA SNAIL1 và CAPN2 trong mô HNSCC cao hơn so với mẫu biểu mô loạn sản của thanh quản và hạ họng, điều này có thể được giải thích bằng việc kích hoạt các loại vận động tế bào trung mô và amip. Trong vật liệu sinh thiết của bệnh nhân HNSCC với T1-2N0M0, sự biểu hiện của các gen chịu trách nhiệm cho protein liên kết actin khác với những bệnh nhân có bệnh lý tiền ung thư của thanh quản và hạ họng: sự biểu hiện của FSCN thấp hơn, trong khi sự biểu hiện của EZR và CAP1 cao hơn. Các dữ liệu chứng minh rằng sự tiến triển của HNSCC có liên quan đến sự kích hoạt của cả hai loại vận động tế bào và với những thay đổi trong sự biểu hiện của mRNA mã hóa cho các protein vận động tế bào.
#ung thư biểu mô tế bào vảy #vùng đầu và cổ #protein vận động tế bào #biểu hiện gen #độ loạn sản #vận động tế bào trung mô #amip
Sự khác biệt của tế bào biểu mô và mô đệm trong ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ về phản ứng hóa trị ngoại vi Dịch bởi AI
Cancer Chemotherapy and Pharmacology - Tập 65 - Trang 1153-1163 - 2009
Việc dự đoán chính xác hiệu quả của các tác nhân hóa trị liệu trong từng trường hợp ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ (HNSCC) là rất quan trọng và có thể được thực hiện bằng cách sử dụng các xét nghiệm ex vivo. Ba mẫu sinh thiết từ mỗi bệnh nhân HNSCC được lấy, xắt nhỏ và phân hủy bằng collagenase. Các mẫu HNSCC đã được phân hủy này được thêm vào các dung dịch loãng tuần tự của cisplatin (CIS) hoặc docetaxel (DTX), được thực hiện trong điều kiện bảo vệ flavin trên các đĩa vi mô có lớp ECM. Sau 72 giờ ủ, các mẫu cấy được cố định bằng methanol và nhuộm bằng Giemsa. Nồng độ ngắt (COC; nồng độ hoàn toàn ức chế sự hình thành thuộc địa) cho tế bào biểu mô (EC) và tế bào mô đệm (SC) đã được đánh giá. 12/15 HNSCC (80%) có thể được đánh giá. Mặc dù có sự tương quan đáng kể của COC của CIS liên quan đến sự hình thành thuộc địa của EC hoặc SC, nhưng không có sự khác biệt đáng kể nào trong phản ứng của các mẫu HNSCC cá thể được tìm thấy trong bài kiểm tra t cho các mẫu ghép (p > 0.16). Điều tương tự cũng áp dụng cho DTX. Tuy nhiên, EC và SC cho thấy sự khác biệt trong đáp ứng hóa trị dẫn đến sự biến đổi COC vượt quá một bước pha loãng trong 44.1% (CIS) và 20% của HNSCC (DTX). Không tìm thấy sự tương quan đáng kể giữa COC của cả hai quần thể tế bào trong các mẫu HNSCC. Phản ứng hóa trị ngoại vi của EC và SC của HNSCC phải được phân tích một cách tách biệt.
#ung thư biểu mô #tế bào vảy #hóa trị #phản ứng hóa trị ngoại vi #tế bào biểu mô #tế bào mô đệm
Nghiên cứu giai đoạn II về carboplatin và edatrexate (10-EdAM) với liệu pháp giải độc leucovorin cho bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào vẩy tái phát ở đầu và cổ Dịch bởi AI
Investigational New Drugs - Tập 12 - Trang 327-331 - 1994
Ung thư biểu mô tế bào vẩy ở đầu và cổ tái phát có phản ứng kém với hóa trị liệu ở hầu hết các bệnh nhân; do đó, việc phát triển các phương pháp mới là điều cần thiết. Edatrexate là một loại thuốc chống folate mới có hoạt tính kháng u được cải thiện trong các nghiên cứu tiền lâm sàng so với methotrexate. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tính khả thi và hiệu quả của việc kết hợp edatrexate với một loại thuốc đơn tác dụng khác, carboplatin trong bệnh tái phát mà chưa điều trị hóa trị. Carboplatin được dùng dưới dạng ngoại trú vào ngày 1 với liều lượng dựa trên công thức: Liều (mg/m2) = (0.091) (độ thanh thải creatinin) (diện tích bề mặt cơ thể) (thay đổi tỷ lệ phần trăm mong muốn trong số lượng tiểu cầu) + 86. Edatrexate (80 mg/m2) được sử dụng vào các ngày 1, 8, và 15 trong chu kỳ 21 ngày. Calcium leucovorin 15 mg được dùng đường uống mỗi 6 giờ trong 4 liều sau edatrexate. Trong số 26 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, 1 bệnh nhân không thể đánh giá về độc tính hoặc phản ứng và 3 bệnh nhân chỉ có thể đánh giá về độc tính. Độc tính neutropenia cấp độ 3 hoặc 4 xảy ra ở mỗi bệnh nhân 2 người, và thrombocytopenia cấp độ 3 hoặc 4 xảy ra ở 2 và 4 bệnh nhân tương ứng. Stomatitis cấp độ 3 chỉ xảy ra ở hai bệnh nhân. Tổng thể, có những phản ứng đáng kể xảy ra ở 2 trong số 22 bệnh nhân có thể đánh giá (9%). Sự kết hợp của carboplatin và edatrexate không vượt trội hơn so với các kết quả mà mong đợi với từng tác nhân đơn lẻ.
Mô hình biểu hiện E-cadherin trong ung thư biểu mô vảy đầu và cổ và mối liên hệ với các yếu tố dự đoán lâm sàng - bệnh lý Dịch bởi AI
The Egyptian Journal of Otolaryngology - Tập 39 - Trang 1-7 - 2023
Cấu trúc phân tử của ung thư biểu mô vảy đầu và cổ (HNSCC) có thể khác nhau dựa trên địa lý và sự biến đổi tương ứng trong các yếu tố nguyên nhân bệnh phổ biến. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích mô hình biểu hiện của E-cadherin (E-cad), một glycoprotein xuyên màng có chức năng ức chế khối u, trong một nhóm HNSCC được điều trị tại một trung tâm y tế chuyên khoa ở miền nam Ấn Độ. Sau khi được sự cho phép của ủy ban đạo đức của viện, biểu hiện của E-cad trong HNSCC đã được đánh giá bằng phương pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang trên các mẫu mô ung thư được thu thập hồi cứu, thu được từ một nhóm bệnh nhân đã phẫu thuật trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 7 năm 2019. Biểu hiện E-cad sau đó được so sánh với các đặc điểm lâm sàng và bệnh lý khác nhau của HNSCC, được thu thập qua hồ sơ y tế của các bệnh nhân tương ứng. Tổng cộng có 60 bệnh nhân HNSCC được đưa vào nghiên cứu, trong đó hầu hết có tổn thương ở khoang miệng, ở giai đoạn tiến triển. Đa số bệnh nhân có biểu hiện E-cad mạnh hoặc trung bình trên bề mặt. Khi phân tích thêm, các khối u trong khoang miệng có biểu hiện E-cad thấp hơn đáng kể so với các khối u thanh quản và hạ họng, và các khối u nguyên phát có biểu hiện E-cad thấp hơn so với các trường hợp tái phát. Phân tích đa biến với hồi quy tỷ lệ cho thấy sự liên kết đáng kể của biểu hiện E-cad thấp với mức độ phân biệt trung bình/kém của các khối u và với sự mở rộng ngoại hạch. Trong số các HNSCC, việc mất biểu hiện E-cad chủ yếu liên quan đến các khối u nguyên phát ở khoang miệng, các khối u phân biệt trung bình/kém và ở những HNSCC có sự mở rộng ngoại hạch.
#E-cadherin #ung thư biểu mô vảy đầu và cổ #ung thư khoang miệng #biểu hiện glycoprotein xuyên màng #yếu tố dự đoán lâm sàng-bệnh lý
Một trường hợp ung thư biểu mô tế bào vảy ban đầu được chẩn đoán là cN4 với hiện tượng sưng hạch bạch huyết lan tỏa đã biến mất sau khi diệt trừ Helicobacter pylori Dịch bởi AI
Esophagus - Tập 13 - Trang 215-219 - 2015
Một bệnh nhân nam trong độ tuổi bảy mươi phàn nàn về khó khăn nuốt và đau lưng. Chụp nội soi thực quản – dạ dày đã được thực hiện và bệnh nhân được chẩn đoán là ung thư biểu mô tế bào vảy ở phần giữa và dưới của thực quản với sự tăng sinh dưới niêm mạc dài 15 cm và giai đoạn S2 của loét dạ dày do nhiễm Helicobacter pylori. Nhiều hạch bạch huyết bị sưng không chỉ ở trung thất mà còn ở cổ và khu vực quanh động mạch chủ đã được phát hiện qua chụp CT. Giai đoạn lâm sàng là T3 N4 M0 Giai đoạn IVa. Hóa trị toàn thân đã được thực hiện trước tiên và hiệu quả điều trị được cho là SD theo tiêu chí RECIST. PET đã cho thấy sự tích tụ FDG trong thành thực quản và dạ dày. Những tổn thương này bị nghi ngờ là ung thư thực quản do nhiễm HP, và việc diệt trừ Helicobacter pylori đã được thực hiện. Sau khi diệt HP, khối u ở thực quản, khối u dưới niêm mạc của thực quản và loét dạ dày đã có sự thu nhỏ rõ rệt. Nhiều hạch bạch huyết cũng đã thu nhỏ rõ rệt theo chụp CT. Tổng thể, ung thư thực quản giai đoạn đầu vẫn còn. Can thiệp cắt niêm mạc dưới nội soi (ESD) đã được tiến hành. Chẩn đoán bệnh lý là Loại 0-IIc, pT1b(SM2), ly1, v2, pHM0, pVM0. Sau ESD, bệnh nhân đã biểu hiện sốt do giảm bạch cầu, được chẩn đoán là hội chứng giảm bạch cầu myelodysplastic (MDS) trong thời gian theo dõi và chọn chăm sóc hỗ trợ tốt nhất (BSC).
#ung thư biểu mô tế bào vảy #Helicobacter pylori #cắt niêm mạc dưới nội soi #loét dạ dày #hội chứng giảm bạch cầu myelodysplastic
Mức biểu hiện cao của protein AMAP1 có tương quan với tiên lượng xấu và tỷ lệ sống sót sau phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ Dịch bởi AI
Cell Communication and Signaling - Tập 12 - Trang 1-9 - 2014
Bất chấp những tiến bộ gần đây trong liệu pháp điều trị ung thư nói chung, thời gian sống sót của bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tế bào vảy vùng đầu và cổ (HNSCCs) không có sự cải thiện đáng kể trong vài thập kỷ qua. Các tế bào HNSCC thường có các hình thái xâm lấn và di căn, và sự biểu hiện của thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) và cortactin đã được chứng minh có vai trò quan trọng trong sự phát triển của khối u ác tính ở HNSCCs. Chúng tôi đã chỉ ra trước đó rằng một con đường Arf6, trong đó Arf6 được kích hoạt bởi GEP100 và sử dụng AMAP1 (còn được gọi là DDEF1 hoặc ASAP1) như một yếu tố tác động hạ lưu của nó, là rất quan trọng cho sự xâm lấn và di căn của các tế bào ung thư vú khác nhau. Con đường này được kích hoạt bởi các kinase tyrosine receptor, bao gồm cả EGFR; hơn nữa, AMAP1 liên kết vật lý với cortactin, trong đó việc ức chế liên kết này một cách hiệu quả chặn đứng sự xâm lấn và di căn. Chúng tôi ở đây đã điều tra xem liệu sự biểu hiện của các thành phần trong con đường Arf6 có tương quan với tiên lượng kém của bệnh nhân HNSCC hay không. Chúng tôi đã chỉ ra trước đó rằng mức độ protein AMAP1 không tương quan với mức độ mRNA của nó, do đó chúng tôi đã sử dụng nhuộm immunohistochemical của các mẫu lâm sàng HNSCC để điều tra mức độ protein AMAP1. Chúng tôi phát hiện ra rằng mức độ biểu hiện protein AMAP1 cao, cũng như sự đồng biểu hiện của nó với EGFR, có tương quan thống kê với thời gian sống sót không có bệnh và thời gian sống sót toàn bộ kém, trong khi mức độ biểu hiện cao của cortactin hoặc sự đồng biểu hiện của nó với EGFR không có tương quan như vậy. Việc xác định các yếu tố tiên đoán của chúng tôi, cùng với những phát hiện trước đó của chúng tôi về con đường tín hiệu đồng nhất mà các yếu tố tiên đoán này cuối cùng tạo ra, sẽ cung cấp thông tin mạnh mẽ cho việc phát triển hơn nữa các liệu pháp HNSCC.
#ung thư biểu mô tế bào vảy #HNSCC #AMAP1 #EGFR #tiên lượng #xâm lấn #di căn
Tổng số: 18   
  • 1
  • 2